Chặn cái khĩ, lại bĩ cái khơn
Nghị định 20 ra đời trong bối cảnh Chính phủ hồn thiện cơ sở pháp lý về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp cĩ phát sinh giao dịch liên kết, cĩ tham chiếu đến 15 chương trình hành động chống xĩi mịn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngồi (“BEPS”) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (“OECD”).
Theo đánh giá của bà Đinh Mai Hạnh, Phĩ tổng giám đốc Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam, kể từ thời điểm xây dựng Luật, ban hành và cĩ hiệu lực cho đến nay, Nghị định đã cho thấy tính hiệu quả nhờ gia tăng tính minh bạch trong cơng tác quản lý các doanh nghiệp thực hiện giao dịch liên kết của cơ quan thuế, đồng thời tăng cường ý thức chấp hành quy định của người nộp thuế.
Bộ hồ sơ với 3 cấp độ gồm Hồ sơ tồn cầu, Hồ sơ quốc gia và Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia đã tạo ra sự minh bạch, nhất quán và cái nhìn tồn diện, tổng thể về tồn bộ chuỗi giá trị, thu nhập cũng như số thuế đã nộp của các tập đồn tại các quốc gia.
Bên cạnh đĩ, việc đưa ra các trường hợp người nộp thuế được miễn nghĩa vụ kê khai, lập báo cáo nhận được sự đồng tình từ cộng đồng doanh nghiệp do giảm gánh nặng chi phí tuân thủ.
Thơng qua nguyên tắc “bản chất quyết định hình thức”, Nghị định cũng đã giúp các doanh nghiệp chú ý hơn đến bản chất của giao dịch liên kết, đặc biệt là các giao dịch liên quan đến phí dịch vụ nội bộ, phí bản quyền. Nếu như trước đây, việc tuân thủ các quy định về giao dịch liên kết là một nội dung tương đối chưa được chú trọng tại nhiều doanh nghiệp thì đến nay, việc tuân thủ đã trở thành đề tài được ưu tiên xem xét và cân nhắc thực hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh các điểm tích cực, Nghị định 20 vẫn tồn tại một số vướng mắc, trong đĩ, một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều doanh nghiệp phải kể đến quy định khống chế chi phí lãi vay được trừ cho mục đích tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Một trong những vấn đề mấu chốt của Nghị định 20 tại khoản 3 điều 8 là khống chế tỷ lệ lãi vay.
Cụ thể, Nghị định quy định, tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp khơng vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế. Khi đĩ, phần chi phí lãi vay vượt quá 20% sẽ bị coi là chi phí khơng hợp lý và bị tính thuế.
Việc áp dụng mức khống chế chi phí lãi vay trong Nghị định 20 được tham chiếu đến chương trình hành động số 4 của BEPS. Đối tượng chính mà BEPS hướng đến là các Tập đồn đa quốc gia lợi dụng thuế suất thuế TNDN ở các nước khác nhau và dùng cơng cụ vốn vay để điều chuyển lợi nhuận của các cơng ty thành viên trong Tập đồn với mục đích tránh thuế.
Với mục tiêu ban đầu như vậy, nhưng trên thực tế việc áp dụng khống chế chi phí lãi vay đang tác động lớn đến các Tập đồn tư nhân trong nước hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - con, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực địi hỏi vốn lớn như bất động sản.
Mơ hình cơng ty mẹ - con, trong đĩ cĩ cơng ty mẹ chuyên thực hiện chức năng quản lý vốn tập trung của Tập đồn đang trở thành một mơ hình hoạt động phổ biến. Đơn cử như để thực hiện các dự án cần tiếp cận nguồn vốn lớn nhưng các cơng ty thành viên của các Tập đồn trong nước thường khơng đủ năng lực để được vay vốn từ các ngân hàng thương mại.
Việc áp trần lãi vay vơ tình gây khĩ cho các doanh nghiệp trong nước
Do đĩ, các Tập đồn, Tổng cơng ty phải thực hiện huy động vốn tập trung tại cơng ty mẹ để chuyển vốn cho các cơng ty con, các cơng ty thành viên. Hơn nữa, Tập đồn huy động vốn tập trung thơng thường sẽ cĩ mức lãi suất ưu đãi hơn, giảm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động.
Sửa đổi những điểm bất hợp lý
Tại Hội nghị đối thoại về chính sách, thủ tục hành chính thuế và hải quan diễn ra sáng ngày 27/11 mới đây, đại diện Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, đã nhận được kiến nghị của Cơng ty cổ phần Thương mại CITICOM. Trong đĩ, CITICOM khẳng định, việc đưa ra quy định lãi vay khơng vượt ngưỡng 20% tổng lợi nhuận là chưa hợp lý.
Bởi theo quy định, các doanh nghiệp đều cĩ thể được khấu trừ các loại chi phí nếu là hợp lý, hợp lệ. Đặc biệt, trong khi doanh nghiệp nước ngồi thường chỉ sử dụng nguồn vốn vay với tỷ lệ nhỏ bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu thì ngược lại, hầu hết doanh nghiệp trong nước đều cĩ chung đặc điểm là sử dụng nguồn vốn vay rất lớn, đến 70 - 80%.
Vì vậy, "quy định này sẽ khiến đa số doanh nghiệp mất tính chủ động và cơ hội trong phát triển kinh doanh, mở rộng đầu tư sản xuất cũng như kém cạnh tranh so với các doanh nghiệp nhà nước”, đơn kiến nghị nêu.
Hơn nữa, theo CITIMOM nếu các cơng ty cĩ liên kết cĩ mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp bằng nhau thì tổng thể thuế thu nhập doanh nghiệp là khơng đổi và khơng rủi ro khi doanh thu tài chính của cơng ty này là chi phí tài chính của cơng ty khác.
Nghị định 20 nên cĩ sự điều chỉnh lại cho phù hợp
Theo LS. Trương Thanh Đức, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, quy định này sẽ khơng phù hợp với tất cả doanh nghiệp trong nước khi đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ việc khống chế chi phí lãi vay được trừ 20% trên lợi nhuận thuần trước lãi và khấu hao lại là các doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc biệt, những doanh nghiệp đang đầu tư vào các ngành trọng điểm cần số vốn rất lớn. Bởi lẽ, các doanh nghiệp cùng cơng ty con đều hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nên đều phải áp dụng các quy định về chính sách thuế của pháp luật Việt Nam.
LS. Trương Thanh Đức nhấn mạnh: “Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành khơng cĩ quy định về khống chế lãi tiền vay như quy định khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20. Quy định này tại Nghị định 20 cũng chưa phù hợp với Luật Thuế thu nhập hiện hành nên khơng cĩ cơ sở để thực hiện.
Hơn nữa, khoản 3, Điều 8 khơng phân biệt doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước là cách áp dụng rất cứng nhắc, cào bằng theo kiểu thấy một người đau mắt nhưng bắt cả làng đeo kính, chỉ khiến cộng đồng doanh nghiệp gặp thêm nhiều khĩ khăn”.
Bàn về các giải pháp, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh - Học viện Tài chính cho rằng, chống chuyển giá là câu chuyện cĩ thể xảy ra đối với cả doanh nghiệp trong nước và ngồi nước. Đặc biệt, ở Việt Nam khi chúng ta cịn cĩ chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế đối với các ngành nghề, các lĩnh vực, các địa bàn khác nhau thì chuyện chuyển giá từ ngành này sang ngành khác, từ trong nước ra nước ngồi đều cĩ thể xảy ra đối với cả doanh nghiệp trong nước và ngồi nước.
Bởi vậy, trong các luật về chuyển giá đều cĩ quy định chung, khơng phân biệt. Quan trọng ở đây là doanh nghiệp cĩ chứng minh được mình khơng chuyển giá hay khơng. Nếu nĩi khơng chuyển giá thì phải chứng minh bằng số liệu qua thực tiễn.
Với câu chuyện Nghị định khống chế chi phí lãi vay được trừ khơng quá 20% thì việc khống chế mức trần 20% cĩ thể xem xét kỹ lưỡng hơn, dựa trên việc khảo sát tình hình chung của doanh nghiệp và cĩ trường hợp ngoại lệ.
Cụ thể, cần cĩ những văn bản hướng dẫn thực thi, trong đĩ cĩ thể cĩ những ưu tiên theo từng loại doanh nghiệp như doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ở vùng sâu vùng xa, hoạt động trong các ngành đặc thù với các chính sách vay vốn khác nhau, đảm bảo ưu tiên cho doanh nghiệp một cách tốt nhất.
Trong nội dung trả lời mới nhất, ơng Nguyễn Văn Phụng - Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế) cho biết, về các ý kiến cho rằng, quy định trên của Nghị định 20 cĩ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, về phía cơ quan thuế luơn tiếp thu, cầu thị và đã cĩ văn bản gửi đến doanh nghiệp, đề nghị doanh nghiệp cung cấp thêm thơng tin liên quan.
Ơng Phụng cũng khẳng định nếu như quy định nào phù hợp với cái chung, nhưng chưa phù hợp với đặc thù, thì sẽ báo cáo với cấp cĩ thẩm quyền trong phạm vi xem xét cĩ hướng dẫn cụ thể, để làm sao vẫn đảm bảo tơn trọng pháp luật, khơng ảnh hưởng gì đến cam kết quốc tế, cũng như khơng ảnh hưởng đến sự cạch tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thanh Thủy